Mấy ngày qua, loáng thoáng đọc vài bài viết liên quan đến nhân vật Trương Vĩnh Ký…. Tính không viết gì…. Song, tối nay, cậu Em gởi cho đường link một bài báo và nói: anh cho em xin ý kiến suy nghĩ của anh….. Thôi thì hạ bút, viết vài dòng…
Năm 1999, mình được một ông anh nhờ giúp xử lý thông tin cho đề tài luận án tiến sĩ của anh ấy: Lịch sử Báo chí Việt Nam… Và, công việc đó đã đưa mình đến với Gia Định báo, đến với Trương Vĩnh Ký…
Hãy bắt đầu từ vài dòng tóm lược lai lịch của Trương Vĩnh Ký….
Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898), tên hồi nhỏ là Trương Chánh Ký, sau này đổi tên đệm thành Trương Vĩnh Ký, hiệu Sĩ Tải; là nhà chính trị, nhà văn, nhà khoa học xã hội của Việt Nam trong thế kỷ 19. Với tư tưởng ủng hộ hết mình cho thực dân Pháp, ông đã được Pháp cử làm quan đại thần trong triều đình nhà Nguyễn. Trương Vĩnh Ký bị nhiều người phê phán vì đã trợ giúp đắc lực cho thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, ủng hộ thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị Việt Nam và làm cố vấn cho Pháp trong việc đàn áp Phong trào Cần Vương của những người kháng chiến chống Pháp. Trong các bức thư cá nhân, Trương Vĩnh Ký đã tự nhận mình là "Người bề tôi tận tâm và vâng lời" của nước Pháp. Có những người đã xếp Trương Vĩnh Ký vào nhóm Việt gian tay sai cho Pháp tiêu biểu trong thế kỷ 19, cùng với Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan.
Đối với báo chí viết bằng chữ Quốc ngữ tại Việt Nam, ông được coi là người tiên phong vì thực dân Pháp đã cho phép ông thành lập tờ báo quốc ngữ đầu tiên mang tên là Gia Định báo. Với sự hỗ trợ của thực dân Pháp, Trương Vĩnh Ký có nhiều công trình trên lĩnh vực văn hóa, nên được kết nạp làm thành viên thứ 18 của hội "Savants du Monde", một hội gồm nhiều nhà khoa học, văn học Pháp (một số nguồn Việt Nam hiểu nhầm, cho rằng ông "đứng thứ 18 trong các đại văn hào thế giới", nhưng thực ra "Savants du Monde" chỉ là tên gọi khoa trương, về bản chất đây là một hội tự lập mang tính giao lưu cá nhân và thành viên chỉ toàn người Pháp mà thôi). Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật.
(hết trích).
Một bản tóm lược lai lịch của Trương Vĩnh Ký đủ ngắn để tất cả chúng ta có thể đọc hiểu về con người Trương Vĩnh Ký… và đủ dài để ghi lại trọn vẹn các thông tin cơ bản nhất về thân thế, sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký.
Và, nếu lịch sử đã sang trang, nếu các nhà nghiên cứu thấu hiểu đúng bản chất của từng vấn đề được gắn liền trong từng giai đoạn lịch sử…. thì hãy để nó “nằm yên” trong góc tủ của thư viện…. xin đừng bới ra, như là một “phát hiện” khoa học đầy kệch cỡm… Sự kệch cỡm của các nhà khoa học đã làm cho thế hệ trẻ “nửa mùa” chúng tôi cảm giác mông lung, mất hết niềm tin vào chính khoa học, chứ chưa nói đến những yếu tố tư tưởng xã hội khác mà chúng tôi từng tiếp cận…. (thực chất, như tôi, già chưa tới, trẻ thì đã qua – nên tôi gọi trẻ nửa mùa… vì những gì tôi được học trước đây, với những gì quý vị đang rao giảng là một sự mâu thuẫn khủng khiếp, có thể làm thay đổi toàn bộ nhân sinh quan của tôi về một giai đoạn lịch sử của dân tộc…).
Quý vị tổ chức hội thảo để “vinh danh” Trương Vĩnh Ký… như là một “ngôi sao sáng chói” trong một giai đoạn lịch sử nước nhà….?!?!?!
Vậy, quý vị đã đọc những gì do chính tay Trương Vĩnh Ký viết chưa? Tôi xin liệt kê vài điều… trong vô vàn điều mà ông ta đã viết…. dưới đây….
- Năm 1859, khi ông ta tròn 22 tuổi…. Trương Vĩnh Ký đã viết một lá thư tay, gởi cho Trung tướng Hải quân Pháp Jean Bernard Jauréguiberry đảm nhiệm vai trò quyền Tư lệnh quân Pháp ở Gia Định như sau: “… Tôi nhân danh là người đại diện cho tín hữu Kitô kính dâng lên Ngài lời cầu xin của chúng tôi… Nỗi thống khổ của chúng tôi hằng gánh chịu dưới bạo quyền của các quan lại triều đình gây ra…
Tất cả chúng tôi chắc sẽ chịu chết nếu Ngài không kịp đánh đuổi kẻ thù của chúng ta” (Thư viết tay khoảng cuối tháng 3/1859 -Văn khố Hải quân Pháp, Paris; SUM Vincennes – Vũ Ngự Chiêu sưu tầm). Và ngay năm sau 1860, khi quân Pháp chiếm một số tỉnh Nam kỳ, Trương Vĩnh Ký được làm thông ngôn cho các tướng Pháp Charner, Page, Bonard…
- Năm 1876, khi ông ta 39 tuổi, theo lệnh của Thống đốc Nam Kỳ, Đô đốc Duperré, Trương Vĩnh Ký bí mật ra Bắc “tìm hiểu tình hình”, chuẩn bị cho quân Pháp đánh chiếm Bắc kỳ 6 năm sau đó (25/4/1882). Trương Vĩnh Ký báo cáo tình hình (tuy có nhiều chi tiết không đúng), thúc giục quân Pháp nhanh chóng tiến quân ra chiếm Bắc kỳ: “… Sự khốn cùng đang bao trùm dân chúng… đòi hỏi một sự thay đổi và một nền cai trị hữu hiệu… giải thoát một dân tộc đang cảm thấy suy vong”. Trương Vĩnh Ký cũng vẽ ra triển vọng Pháp sẽ thu được những quyền lợi vật chất cụ thể khi chiếm đoạt được xứ này: “… Xứ sở này chẳng thiếu tài nguyên, đất đai mà tôi dám quyết rằng có thể sánh với thổ nhưỡng của nước Pháp… chưa nói tới những tài nguyên khoáng chất bao la, và tôi xin phép nói rằng dân của xứ này đã chết đói trên một chiếc giường đầy vàng…”.
Trương Vĩnh Ký cũng báo cáo với viên Thống đốc Pháp về những điều ông ta ca ngợi sự bảo hộ của Pháp với một số sĩ phu Bắc kỳ: “… Tất cả quý vị đều phải thấy rằng nếu nhà cầm quyền Pháp có ý xâm chiếm xứ này, họ có thể làm việc ấy từ lâu một cách dễ dàng, không phải bàn cãi gì cả. Quí vị phải hiểu rằng quí vị là những kẻ yếu, thật sự quá yếu, cần một sự giúp đỡ của ai đó để gượng dậy… Và tốt hơn chỉ nên tin tưởng vào những bạn đồng minh… dựa vào họ một cách thành thật để đứng lên; phải thẳng thắn, không hậu ý… dang cả hai tay ra với họ…” (Thư ngày 28/4/1876 gởi quyền Thống đốc Pháp ở Nam kỳ, do Bùi Kha viện dẫn)
– Năm 1886, khi ông ta 49 tuổi, Paul Bert sang nhậm chức Tổng trú sứ Bắc kỳ và Trung kỳ, do quen trước trong chuyến công du Pháp năm 1863-1864, Trương Vĩnh Ký được Paul Bert mời giúp việc ở triều đình Huế. Theo yêu cầu của Paul Bert, Nam triều phong cho Trương Vĩnh Ký hàm Tham tá đệ tam phẩm (tương đương thứ trưởng), đứng chân trong Cơ Mật viện của vua Đồng Khánh, vị vua do Pháp dựng lên khi vua Hàm Nghi và cận thần Tôn Thất Thuyết khởi nghĩa ở Huế (5/7/1885) chống Pháp không thành công phải lánh ra Quảng Trị ban Chiếu Cần vương.
Vai trò của Trương Vĩnh Ký là bí mật điều khiển Đồng Khánh và Cơ Mật viện (cơ quan lãnh đạo cao nhất của triều đình Huế) làm theo ý đồ của Pháp. Trương Vĩnh Ký báo cáo cho Paul Bert: “… Tôi sẽ trấn áp tất cả các hãnh thần và bao vây nhà vua, tôi sẽ kiếm những người thật sự có khả năng cho Viện Cơ mật” (Báo cáo ngày 17/6/1886 gởi Paul Bert).
Trương Vĩnh Ký cũng gợi ý cho Paul Bert tổ chức lực lượng đặc biệt để triệt phá bọn “phiến loạn” (Cần vương): “… Hãy nhanh chóng lập các đoàn lạp binh (thanh niên Công giáo) và võ trang cho họ. Ngài không có gì phải quan ngại… bởi vì quân khí do ngài cung cấp, cho mượn, hoặc bán đều thuộc trách nhiệm trực tiếp của nhà vua và chính quyền An Nam, sau cuộc bạo hành ngày 5/7, nay chỉ còn cách thuần phục nước Pháp…” (Thư ngày 5/10/1886)… “Bọn phiến loạn không đáng sợ, họ chỉ có những khí giới cổ lỗ của chính quyền An Nam và vài võ khí mới mua lại được của bọn buôn lậu Trung Hoa. Cái chứng cớ phơi bày ra ở Quảng Trị và Quảng Bình, họ đã không thể cắt được dù chỉ một lần đường dây điện thoại. Họ rất dễ bị tiêu mòn và trở lại ngoan ngoãn…”.
Chính Trương Vĩnh Ký đã nói rõ vai trò bí mật của mình ở Cơ Mật viện trong một thư gởi viên Giám đốc nội vụ Noel Pardon (sau khi Paul Bert chết): “… về phần tôi, xâm nhập vào Cơ Mật viện của nhà vua, vai trò của tôi là làm cho nhà vua và triều thần hiểu được các ý tốt (sic) của chính phủ Pháp cũng như điều động chính sách của chính phủ An Nam đi gần với chính sách của nước Pháp” (Thư ngày 19/1/1887, trình cho Bihourt người kế vị Paul Bert, qua viên Giám đốc Nội vụ Noel Pardon). Người ta thường gọi vai trò này là loại “điệp viên của Pháp”.
Rõ ràng, chỉ qua vài cột mốc lớn trong vòng đời của Trương Vĩnh Ký, chúng ta có thể kết luận: người “TRÍ THỨC” Công giáo Trương Vĩnh Ký theo phục vụ cho giới lãnh đạo cao cấp của đội quân xâm lược Pháp khi tuổi ông còn rất trẻ, ngay từ những ngày đầu chúng đến Việt Nam; và duy trì tính chất Việt gian phản quốc đó liên tục qua nhiều vai trong suốt cuộc đời, cho đến ngày bị thất sủng sau khi Paul Bert, người bảo trợ chính của ông đột ngột qua đời (1887) và cho đến ngày ông mất (1898).
Phải chăng, các nhà “lật sử” hôm nay đang muốn “biện minh” cho Trương Vĩnh Ký…. Là người “có công” mang “ánh sáng văn minh” của thực dân Pháp đến với đất nước chúng ta?!?!?
Vậy, hãy thử xem các hoạt động văn hoá của Trương Vĩnh Ký đã “đóng góp” được những gì?
Nói không ngoa, thì các hoạt động văn hóa của Trương Vĩnh Ký cũng không ra ngoài quỹ đạo của chính sách thực dân Pháp tại Việt Nam.
Chúng ta trở lại bối cảnh tình hình năm quân Pháp vừa đến Nam kỳ: Sau khi chiếm được Nam kỳ bằng vũ lực (1860), thực dân Pháp đã nghĩ ngay đến việc thiết lập thể chế cai trị dân bản xứ. Có hai khuynh hướng tổ chức chế độ cai trị: Phe Aubaret – Philastre chủ trương chỉ đô hộ về quân sự và kinh tế. Phe Lagrandìère, Chasseloup Laubat, – thắng thế, chủ trương trực trị, đồng hóa, tức Pháp sẽ đặt sĩ quan Pháp ở tất cả các cấp chính quyền. Người bản xứ thì cần thiết cho việc hầu hạ như cu ly, bồi bếp, chạy giấy, thông ngôn, ký lục…
Viên Thanh tra sự vụ bản xứ (Affaires Indigènes) Eliacin Luro thành lập Trường Tham biện (Collège des stagiaires, cũng gọi là Trường Hậu bổ) dạy cho số người Pháp (từ Pháp sang) “nghề” làm quan chức cai trị. Mặt khác, khi thời kỳ chinh phục bằng vũ lực đã qua, đến thời kỳ “nghiên cứu để cai trị”, Pháp cần sử dụng nhiều “thông ngôn” người bản xứ để giúp Pháp tìm hiểu đất nước và con người bản xứ, giúp trang bị kiến thức thông thường cho số người Pháp trong bộ máy cai trị thực dân. Cho nên Tướng Charner lập trường Adran từ rất sớm, sau đổi thành Trường Thông ngôn (Collèges des interprètes).
Tướng Bonard chủ trương giữ nguyên cơ cấu tổ chức xã hội Việt Nam ở làng. Viên Giám đốc nội vụ Paulin Vial nói thẳng: “Đó là phương pháp duy nhất thích hợp với sự an toàn của chúng ta (người Pháp), vì nó chia rẽ dân bản xứ bằng cách thừa nhận họ tự trị các làng xã, một điều họ rất quan tâm… Nó mang an ninh cho nhà cầm quyền Pháp, không cho nhân dân có thể liên kết với nhau trong mọi hành động chung chống lại chúng ta” (Paulin Vial, “L’Annam et le Tonkin”, trích dẫn bởi Vũ Quốc Thúc trong “Pháp chế sử ViệtNam”).
Thực dân Pháp còn cho rằng, để triệt tiêu mọi ảnh hưởng của số sĩ phu lãnh đạo kháng chiến thì phải thay thế chữ Nho bằng chữ Quốc ngữ, dùng Quốc ngữ làm công cụ đắc lực cho chính sách trực trị, đồng hóa của chúng (Địa chí Văn hóa TP.HCM, tập II, trang 200-201). Pháp mở trường dạy chữ Quốc ngữ, nhưng lúc đầu các trường này rất ít người học. Còn những người học xong thì cũng không có gì để đọc ngoài mấy quyển sách về tiểu sử các ông thánh. Cho nên yêu cầu về phiên âm, phiên dịch, viết sách Quốc ngữ là cấp thiết.
Đó là bối cảnh chính trị – xã hội ở Nam kỳ những năm sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862 và khi Phan Thanh Giản đầu hàng Pháp năm 1867 (Pháp chiếm hết 6 tỉnh Nam kỳ).
Trương Vĩnh Ký là người phiên âm, dịch nhiều sách nhất trong những buổi đầu ấy. Nhà sử học Jean Bouchot, trong sách của ông (Petrus Ký, Erudit Cochinchinois, (P. Ký, nhà thông thái Nam kỳ) Jean Bouchot, Imprimerie Commerciale, 1925) đã khen cái ý thức, cái tài năng của Trương Vĩnh Ký: “Tất cả những gì ông (Trương Vĩnh Ký) đã dịch từ Hán ra chữ Quốc ngữ đều không có mục đích nào khác là làm cho người Nam chấp nhận mẫu tự La tinh và giảm bớt dùng chữ Hán”… “Việc đó ông Trương Vĩnh Ký đáp ứng đúng với yêu cầu của các vị Đô đốc – Thống đốc đã từng bày tỏ ngay từ lúc Pháp mới chinh phục Nam kỳ, những điều mà ông Vial, Giám đốc nội chính đã nói lên và ông Vial đã đánh giá đó là những trở ngại do chữ Hán gây ra giữa người Pháp và người Nam” (ĐCVH TP.HCM, tập I, tr.203).
Luro đã viết trong phúc trình lên Thống đốc Nam kỳ: “Từ lâu tôi đã thỉnh cầu một cách vô hiệu rằng người ta phải phiên dịch, dưới sự chăm sóc của một Hội đồng có đủ quyền hành, lịch sử nước An Nam và những sách cao quí của triết lý Trung Hoa. Người dân ít nghe tiếng quan thoại, vào trình độ họ sẽ rất sung sướng có được những cuốn sách dịch bằng ngôn ngữ thường ngày của họ một cách thanh nhã (Taboulet, La geste francaise en Indochine (Sự nghiệp lớn của Pháp ở Đông Dương), tập II, tr.594 – Trích lại của Nguyễn Sinh Duy “Cuốn sổ bình sanh Trương Vĩnh Ký”, Nam Sơn xb, Sài Gòn, tháng 3/1975).
Trên lĩnh vực này Trương Vĩnh Ký cũng cộng tác với Pháp rất sớm, từ 1864, và đeo đuổi suốt đời, đến năm 1894 (30 năm). Trong thời gian 30 năm ấy, theo chủ trương của Pháp, Trương Vĩnh Ký đã viết, dịch, phiên âm, khảo cứu hơn 124 đầu sách (theo Nguyễn Sinh Duy, Sđd), gồm 3 thể loại sau:
1. Loại cẩm nang giao dịch: phần lớn là những giáo trình ông dạy ở Trường Thông ngôn, Trường Hậu bổ (Tham biện); có thể kể: Abrégé de la grammaire annamite, 1867 (Tóm lược văn phạm tiếng An Nam; Cours pratique de la langue Annamite, 1868 (Giáo trình thực hành tiếng An Nam); Mẹo luật dạy tiếng Pha-lăng-sa, 1869…
2. Loại nghiên cứu truyền thống bản xứ:
*Loại tài liệu nghiên cứu này đã được giáo sĩ Legrand de la Liraye soạn thảo từ khoảng năm 1844¬1855, nhưng cũng chỉ là những ghi chép sơ sài. Trương Vĩnh Ký là người Việt đầu tiên lấp đầy những khiếm khuyết của nhà truyền giáo trên. Trong Lời tựa cuốn Cours d’Histoire annamite (Giáo trình Lịch sử xứ An Nam) Trương Vĩnh Ký nhấn mạnh: “Tôi muốn quí vị, bằng thứ tiếng Pháp hay ho và phong phú này sẽ làm quen với lịch sử của nước chúng tôi. Tôi hy vọng thiên thuật sự này được hiểu bằng một thứ ngôn ngữ mà quí vị đang theo học, sẽ giúp quí vị đi sâu vào tất cả những tinh tế của nó, đồng thời cho phép quí vị chọn lọc một cách thuận lợi cái đặc sắc trong đó” (Nguyễn Sinh Duy trích dẫn theo Bouchot, Sđd, tr.27). Dưới ngòi bút Trương Vĩnh Ký “cơ cấu xã hội Việt Nam được tập hợp một cách có phương pháp và hệ thống, đặc biệt rất quan trọng, rất chính xác cũng như rất khích lệ cho những yêu cầu đúng lúc đối với các nhà cai trị Pháp đương thời” (Nguyễn Sinh Duy, Sđd, tr.42). Các sách loại này có: Cours d’Histoire annamite (Giáo trình Lịch sử nước An Nam), tập I, 1875 – tập II, 1877; Saigon d’autrefois (Sài Gòn xưa) 1882; Saigon d’aujourd’hui, 1885 (Sài Gòn ngày nay); Ước lược truyện tích nước Nam, 1887; Annam politique et social (Chính trị và xã hội nước An Nam)…
*Loại nghiên cứu chuyên đề:
Trên các lĩnh vực địa lý, canh nông, thực vật học… Trương Vĩnh Ký làm việc cật lực, thậm chí với một nghị lực và lòng say mê “phi thường”, nhưng thực ra nó chỉ đóng góp cho yêu cầu của Ủy ban nghiên cứu phát triển Canh nông và Kỹ nghệ Nam kỳ (Comité Agricole et Industriel de la Cochinchine) mà chủ đích là phục vụ việc tận khai thác thuộc địa Nam kỳ của thực dân Pháp. Nhiều sách, bản đồ loại này của Trương Vĩnh Ký đã được đưa vào loại tài liệu mật, như tập Dư đồ thuyết lược, mà trước đó những bản đồ của Dayot, Brun, Taberd… thế kỷ XVIII không đáp ứng được (Nguyễn Sinh Duy, Sđd, tr.46).
3. Loại phổ biến chữ Quốc ngữ:
Từ sau năm 1862, khi Pháp đã chiếm 3 tỉnh Đông Nam kỳ, chữ Quốc ngữ trở thành công cụ cho “chính sách thực dân bằng sách vở”, là văn tự chính thức cho các giấy tờ hành chánh, tư pháp và thương mại. Áp dụng và phổ biến chữ Quốc ngữ vào dân gian không gì hơn là chuyển ngữ ngay nền văn chương truyền khẩu.
Trương Vĩnh Ký viết, phiên âm, dịch thuật… các sách thuộc loại này, như Sách vần Quốc ngữ, Chuyện đời xưa, Kim Vân Kiều, (1875), Đại Nam quốc sử diễn ca (1875), Sơ học vấn tân quốc ngữ diễn ca (1877), Gia huấn ca, Nữ tắc, Thơ mẹ dạy con, Lục Vân Tiên truyện, Tam tự kinh Quốc ngữ diễn ca, Tam thiên tự giải âm, Minh Tâm Bửu giám, Trung Dung, Bất cượng, chớ cượng làm chi… Sách Trương Vĩnh Ký đều do chính phủ thuộc địa ấn hành và bao tiêu.
Như vậy thực tế đã chỉ rõ, toàn bộ công trình biên tập và khảo cứu của Trương Vĩnh Ký đều được viết theo lệnh, hoặc gợi ý của nhà cầm quyền thuộc địa bấy giờ. Nhiều người gọi “Đó là công trình đào xới thuộc địa” của những Aubaret, Luro, Vial, Silvestre, Philastre, Schreiner, Liraye… được thể hiện bằng nhận định và cảm nghĩ xác thực của một con người bản xứ tay sai Trương Vĩnh Ký, điều mà các quan thực dân Pháp không thể có được.
Sau này, những công trình đó trở thành những tài liệu nghiên cứu lịch sử, văn hóa của lớp người đến sau, đó là vấn đề hoàn toàn khác, là sự phát triển khách quan của công cuộc “Trở về cội nguồn” của nhiều thế hệ người Việt Nam yêu nước; điều đó hoàn toàn nằm ngoài chủ đích của Trương Vĩnh Ký và các quan thầy của ông. Đặt cho Trương Vĩnh Ký những mỹ từ “nhà bác học lớn” đầu tiên của Việt Nam (Jean Bouchot), một “thiên tài về ngôn ngữ học”… (họ không biết rằng Trương Vĩnh Ký đến sau Lê Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức… khá lâu), đó là những xưng tụng không đúng thực tế lịch sử, càng không đúng với bản chất, động cơ đích thực của Trương Vĩnh Ký.
Nếu cần nói thì nên khẳng định một thực tế khác: khi kẻ tay sai phản phúc càng giỏi phục vụ kẻ cướp nước thì tai họa cho nhân dân càng lớn, nếu người dân, người trí thức chân chính Việt Nam không có bản lĩnh “tương kế tựu kế” lấy “gậy của ông đập lại lưng ông”, như các thế hệ nhân sĩ trí thức đầu thế kỷ XX sau này đã làm với chữ Quốc ngữ trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, Minh Tân, Duy Tân… và các tên tuổi lớn Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh… Họ nối tiếp các giá trị tinh thần truyền thống của Dân tộc là Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Khí phách kiên cường bất khuất, xả thân vì nghĩa lớn Giải phóng dân tộc, đặc biệt là Bản lĩnh Trí tuệ Việt Nam… chớ không phải nối tiếp sự nghiệp làm Văn hóa bán nước của Trương Vĩnh Ký.
Nhà giáo nhân dân, Anh hùng lao động Trần Văn Giàu đã nói rất đúng: “Khi mà xâm lược và kháng chiến đang chọi nhau dữ dội, trên chiến trường Thắng (lợi) Thất (bại) chưa ngã ngũ hẳn, khi ấy mà ai đứng hẳn về phe địch thì nhà chép sử nào, dù có rộng xét mấy cũng không thể lấy bất kỳ số sách vở sáng tác hay phiên dịch nào để biện bạch và giảm nhẹ trách nhiệm tinh thần của một người dân nước, nhất là của một “Kẻ Sĩ” (Địa chí Văn hóa TP.HCM, 1985: Sđd, tập II, tr.232).
Ôi thay, cuộc đời thật đảo điên…. Chính Trương Vĩnh Ký, đến ngày cuối đời, bất giác nhận ra được điều gì đó… mà trăn trối lại… nói với hậu thế, phải ghi trên bia mộ của mình một câu tiếng Latinh: “Miseremini Mei Saltem Vos Amici Mei” (tạm dịch là: “Xin hãy thương xót tôi, hỡi các anh chị là những người bạn tôi”). Thực chất, câu này không phải của Trương Vĩnh Ký, mà là Trương Vĩnh Ký lấy từ Kinh Cựu Ước, trong phần: Sách của Job (Job – 19.21-27), thuật lại chuyện Job bị Thượng đế và loài người lìa bỏ.
Nguyên văn trong sách là: “Xin thương tôi, xin thương xót tôi, hỡi các anh là những người bè bạn, vì chính tay Thiên Chúa đã đánh tôi! Tại sao các anh bắt chước Thiên Chúa mà đi săn đuổi tôi, và vẫn chưa no nê với máu thịt của tôi sao? Ôi, những lời tôi nói đây, phải chi có người chép lại, phải chi có người ghi vào sách, có người đục bằng sắt, trám bằng chì, tạc vào đá cho đến muôn đời!”.
Há phải chăng, Trương Vĩnh Ký, trước khi nhắm mắt, xuôi tay, đã phải mượn lời để thốt lên những sự thật thẳm sâu đang gặm nhấm tâm hồn của ông ta? Mà thực tế, ngay thời điểm đó, ông ta làm gì còn tâm hồn… tâm hồn của ông ta đã được bán cho quỷ dữ rồi mà…
Thế tại sao, hôm nay, các nhà khoa học lại “đào” lên cái thây xác không có tâm hồn đó, rồi ca tụng như là một vĩ nhân? Quý vị làm như vậy, há có cảm thấy xấu hổ với những Hàm Nghi, Duy Tân, Tôn Thất Thuyết… với những Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Hoàng Hoa Thám… hay với những Nguyễn Đình Chiểu, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu,… hay không?
Hay, tâm hồn của quý vị cũng được “gởi gắm” theo cùng Trương Vĩnh Ký mất rồi…!?!?!
TCLB
Chưa hết, các nhà báo còn "tôn vinh" Trương Vĩnh Ký như là một con người yêu nước... nói đến đây... chỉ còn biết thở dài.... không còn gì để có thể nói được nữa.... nếu có chăng, chỉ dám nói thêm một câu dẫn của Vũ Trọng Phụng rằng: con đĩ cũng có thể yêu nước nữa kia mà....
#Người_vận_chuyển_Đánh_giày_vạn_lý
p/s: nửa đêm không buồn ngủ....